|
Du kích tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn, tháng 9 -1940 |
Bắc Sơn được đặt tên cho
một nền văn hoá cổ xưa gọi là ‘Văn hoá Bắc Sơn”. Đây là một trong những cái nôi
của loài người. Trong vòng cung núi đá vôi Bắc Sơn có nhiều hang động thích hợp
làm nơi cư trú cho ngưòi tiền sử. “Văn hóa Bắc Sơn” có niên đại 6- 9 vạn năm
thuộc hậu kỳ đá mới. Trong những năm 1922-1925, các nhà khảo cổ học H. Mansuy
và M. Colani đã tổ chức nhiều đợt khai quật và đã phát hiện 43 di tích văn hoá
Bắc Sơn. Trong số di tích đó hầu hết đều nằm trong sơn khối đá vôi Bắc Sơn. Từ
ngày nước nhà độc lập ngành khảo cổ học Việt Nam cũng đã tiến hành nhiều đợt
khảo sát và khai quật một số di tích.
Cư dân Bắc Sơn tiền sử đã biết sử dụng hang động làm nơi trú ẩn
sinh sống. Dấu vết của họ là hàng vạn công cụ và xương. “‘Rìu Bắc Sơn”, “Dấu
Bắc Sơn” là công cụ tiêu biểu của nền văn hoá này. Rìu Bắc Sơn được mài lưỡi
vào loại sốm nhất châu Á (theo GS. Hoàng Xuân Chinh). Chính vì vậy, cư dân Bắc
Sơn đã có bước nhảy vọt trong quá trình chinh phục thiên nhiên. Họ sinh sống
chủ yếu bằng săn bắt hái lượm, bước đầu biết trồng trọt, chăn nuôi. Văn hoá Bắc
Sơn có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc hình thành lịch sử, dân tộc Việt
Nam.
Trong hàng
thế kỷ dưới chính quyền phong kiến Đại Việt, nhân dân các dân tộc Bắc Sơn đã
góp phần xứng đáng vào công cuộc dựng xây và bảo vệ đất nước. Những năm kháng
chiến chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, Bắc Sơn là hậu phương vững chắc của
nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, Hoàng Đình Kinh...
Ngày
25-9-1939 chi bộ đảng đầu tiên của Bắc Sơn được thành lập tại thôn Mỏ Tất xã Vũ
Lăng gồm bốn đồng chí: Đường Văn Thông (tức Kỳ Tân) làm bí thư và Hà Khai Lạc
(Doãn Tạo), Đường Văn Tư (Quảng Long), Mai Huyền (Nguyễn Văn Phòng). Đây là một
trong những chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh.
Lịch sử anh
hùng của nhân dân Bắc Sơn được thể hiện rõ qua cuộc khởi nghĩa vũ trang của
nhân dân Bắc Sơn tháng 9-1940 chống thực dân Pháp. Mùa thu năm 1940, sau khi
Nhật đánh vào thị xã Lạng Sơn, quân Pháp thua, một bộ phận tàn quân Pháp chạy
theo đường Bình Gia - Bắc Sơn về Thái Nguyên. Ngày 25-9-1940 một số cán bộ đảng
viên thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn đã cùng chi bộ đảng Bắc Sơn lập uỷ ban khởi
nghĩa (Uỷ ban khởi nghĩa gồm các đồng chí Hoàng Đình Ruệ, Đường Văn Thức, Hoàng
Văn Hán...), vận động quần chúng vùng dậy, vận động nhân dân các tông xã đoàn
cùng binh lính người Việt trong quân đội Pháp (vừa chạy về địa phương) đi theo
cách mạng, tham gia khởi nghĩa.
Ngày
27-9-1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ. Quân khởi nghĩa (hơn 600 người) với
trang bị giáo mác, gậy gộc, súng kíp, súng trường... tiến đánh đồn Mỏ Nhài.
Trước khí thế tiến công xốc tới của quân khỏi nghĩa tên tri châu Bắc Sơn và cả
trung đội lính đã hoảng sợ bỏ chạy, hoặc bị trừng trị tại chỗ. Quân khởi nghĩa
thu được một số súng ống đạn dược.
Tin chiến
thắng truyền tới đâu, đồng bào nơi đó reo hò, đốt đuốc, cầm dao, kiếm, kéo về
châu ly hỗ trợ, san bằng đồn bốt. Mờ sáng ngày 28-9-1940 nghĩa quân cùng nhân
dân mít tinh mừng thắng lợi. Sau đó đoàn quân khởi nghĩa toả ra các ngả đường
tiếp tục chặn đánh tàn quân Pháp, tước vũ khí của chúng và trấn áp bọn phản
động, phá tan chính quyền địch.
Cuộc khởi
nghĩa Bắc Sơn đang trong khí thế sục sôi lan rộng thì phát xít Nhật thoả hiệp
với bọn thực dân Pháp để Pháp rảnh tay đàn áp cuộc khởi nghĩa. Quân Pháp đã tể
chức quân đánh vào Bắc Sơn, đàn áp khủng bố dã man những chiến sĩ cách mạng và
nhân dân khu vực này. Trước tình hình gay go ác liệt đó, Xứ uỷ Bắc Kỳ cử đồng
chí Trần Đăng Ninh về lãnh đạo phong trào chống khủng bố, củng cố cơ sở, động
viên quần chúng. Ngày 14-10-1940 Chiến khu Bắc Sơn được thành lập, sau đó phát
triển thành căn cứ du kích Bắc Sơn- Võ Nhai.
Ngày
16-10-1940, đội du kích Bắc Sơn ra đời tại làng Đon Uý, xã Vũ Lăng, gồm 20
người với vũ khí trang bị rất thô sơ. Đây là một trong những tổ chức vũ trang
đầu tiên của Đảng, sau này phát triển thành ba trung đội Việt Nam cứu quốc quân.
Thắng lợi đầu tiên của đội du kích (khi đó được đổi tên là Cứu
quốc quân) là đã bảo vệ an toàn đoàn cán bộ cao cấp của Trung ương Đảng đi dự
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pác Bó, Cao Bằng trên đường về xuôi trước sự
tấn công của hàng ngàn quân Pháp và tay sai cưòng hào phản động địa phương vào
khu càn cứ nhằm bắt đoàn cán bộ và tiêu diệt cơ quan đầu não Việt Minh, tiêu
diệt lực lượng vũ trang Bắc Sơn.
Khởi nghĩa
Bắc Sơn là tiền đề quan trọng góp phần quyết định những thắng lợi vẻ vang của
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nghị quyết của Trung ương Đảng ta tháng 11-1940
đã nêu rõ: “Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là
bưóc đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương”.
Chín năm kháng chiến chống Pháp và những năm kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, Bắc Sơn đã chi viện sức người sức của cho chiến trường, là hậu phương
của tiền tuyến lớn.
Nguồn bài
viết: Hoàng Thị Nga (sưu
tầm)
Cảm ơn cô Nga đã chia sẻ bài viết này cho Blog. Hi vọng, trong thời gian tới, cô sẽ tiếp tục đồng hành cùng các em học sinh THCS Long Đống.
Trả lờiXóa