Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2018

LỊCH SỬ BẮC SƠN

Du kích tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn, tháng 9 -1940

Bắc Sơn được đặt tên cho một nền văn hoá cổ xưa gọi là ‘Văn hoá Bắc Sơn”. Đây là một trong những cái nôi của loài người. Trong vòng cung núi đá vôi Bắc Sơn có nhiều hang động thích hợp làm nơi cư trú cho ngưòi tiền sử. “Văn hóa Bắc Sơn” có niên đại 6- 9 vạn năm thuộc hậu kỳ đá mới. Trong những năm 1922-1925, các nhà khảo cổ học H. Mansuy và M. Colani đã tổ chức nhiều đợt khai quật và đã phát hiện 43 di tích văn hoá Bắc Sơn. Trong số di tích đó hầu hết đều nằm trong sơn khối đá vôi Bắc Sơn. Từ ngày nước nhà độc lập ngành khảo cổ học Việt Nam cũng đã tiến hành nhiều đợt khảo sát và khai quật một số di tích.
Cư dân Bắc Sơn tiền sử đã biết sử dụng hang động làm nơi trú ẩn sinh sống. Dấu vết của họ là hàng vạn công cụ và xương. “‘Rìu Bắc Sơn”, “Dấu Bắc Sơn” là công cụ tiêu biểu của nền văn hoá này. Rìu Bắc Sơn được mài lưỡi vào loại sốm nhất châu Á (theo GS. Hoàng Xuân Chinh). Chính vì vậy, cư dân Bắc Sơn đã có bước nhảy vọt trong quá trình chinh phục thiên nhiên. Họ sinh sống chủ yếu bằng săn bắt hái lượm, bước đầu biết trồng trọt, chăn nuôi. Văn hoá Bắc Sơn có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc hình thành lịch sử, dân tộc Việt Nam.
Trong hàng thế kỷ dưới chính quyền phong kiến Đại Việt, nhân dân các dân tộc Bắc Sơn đã góp phần xứng đáng vào công cuộc dựng xây và bảo vệ đất nước. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, Bắc Sơn là hậu phương vững chắc của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, Hoàng Đình Kinh...
Ngày 25-9-1939 chi bộ đảng đầu tiên của Bắc Sơn được thành lập tại thôn Mỏ Tất xã Vũ Lăng gồm bốn đồng chí: Đường Văn Thông (tức Kỳ Tân) làm bí thư và Hà Khai Lạc (Doãn Tạo), Đường Văn Tư (Quảng Long), Mai Huyền (Nguyễn Văn Phòng). Đây là một trong những chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh.
Lịch sử anh hùng của nhân dân Bắc Sơn được thể hiện rõ qua cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân Bắc Sơn tháng 9-1940 chống thực dân Pháp. Mùa thu năm 1940, sau khi Nhật đánh vào thị xã Lạng Sơn, quân Pháp thua, một bộ phận tàn quân Pháp chạy theo đường Bình Gia - Bắc Sơn về Thái Nguyên. Ngày 25-9-1940 một số cán bộ đảng viên thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn đã cùng chi bộ đảng Bắc Sơn lập uỷ ban khởi nghĩa (Uỷ ban khởi nghĩa gồm các đồng chí Hoàng Đình Ruệ, Đường Văn Thức, Hoàng Văn Hán...), vận động quần chúng vùng dậy, vận động nhân dân các tông xã đoàn cùng binh lính người Việt trong quân đội Pháp (vừa chạy về địa phương) đi theo cách mạng, tham gia khởi nghĩa. 
Ngày 27-9-1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ. Quân khởi nghĩa (hơn 600 người) với trang bị giáo mác, gậy gộc, súng kíp, súng trường... tiến đánh đồn Mỏ Nhài. Trước khí thế tiến công xốc tới của quân khỏi nghĩa tên tri châu Bắc Sơn và cả trung đội lính đã hoảng sợ bỏ chạy, hoặc bị trừng trị tại chỗ. Quân khởi nghĩa thu được một số súng ống đạn dược.
Tin chiến thắng truyền tới đâu, đồng bào nơi đó reo hò, đốt đuốc, cầm dao, kiếm, kéo về châu ly hỗ trợ, san bằng đồn bốt. Mờ sáng ngày 28-9-1940 nghĩa quân cùng nhân dân mít tinh mừng thắng lợi. Sau đó đoàn quân khởi nghĩa toả ra các ngả đường tiếp tục chặn đánh tàn quân Pháp, tước vũ khí của chúng và trấn áp bọn phản động, phá tan chính quyền địch.
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đang trong khí thế sục sôi lan rộng thì phát xít Nhật thoả hiệp với bọn thực dân Pháp để Pháp rảnh tay đàn áp cuộc khởi nghĩa. Quân Pháp đã tể chức quân đánh vào Bắc Sơn, đàn áp khủng bố dã man những chiến sĩ cách mạng và nhân dân khu vực này. Trước tình hình gay go ác liệt đó, Xứ uỷ Bắc Kỳ cử đồng chí Trần Đăng Ninh về lãnh đạo phong trào chống khủng bố, củng cố cơ sở, động viên quần chúng. Ngày 14-10-1940 Chiến khu Bắc Sơn được thành lập, sau đó phát triển thành căn cứ du kích Bắc Sơn- Võ Nhai.
 Ngày 16-10-1940, đội du kích Bắc Sơn ra đời tại làng Đon Uý, xã Vũ Lăng, gồm 20 người với vũ khí trang bị rất thô sơ. Đây là một trong những tổ chức vũ trang đầu tiên của Đảng, sau này phát triển thành ba trung đội Việt Nam cứu quốc quân.
Thắng lợi đầu tiên của đội du kích (khi đó được đổi tên là Cứu quốc quân) là đã bảo vệ an toàn đoàn cán bộ cao cấp của Trung ương Đảng đi dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pác Bó, Cao Bằng trên đường về xuôi trước sự tấn công của hàng ngàn quân Pháp và tay sai cưòng hào phản động địa phương vào khu càn cứ nhằm bắt đoàn cán bộ và tiêu diệt cơ quan đầu não Việt Minh, tiêu diệt lực lượng vũ trang Bắc Sơn.
Khởi nghĩa Bắc Sơn là tiền đề quan trọng góp phần quyết định những thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nghị quyết của Trung ương Đảng ta tháng 11-1940 đã nêu rõ: “Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bưóc đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương”.
Chín năm kháng chiến chống Pháp và những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bắc Sơn đã chi viện sức người sức của cho chiến trường, là hậu phương của tiền tuyến lớn.
                    

                                                        Nguồn bài viết: Hoàng Thị Nga (sưu tầm)







ĐÌNH NÔNG LỤC


Đình Nông Lục nhìn từ phiá sau
Đình Nông Lục nằm ở xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 90km theo tuyến đường quốc lộ 1B.
Tại đây, vào tối ngày 25 tháng 9 năm 1940, các đảng viên cộng sản trung kiên vừa thoát khỏi nhà tù của thực dân Pháp trở về đã họp bàn với các đồng chí đảng viên thuộc chi bộ Hưng Vũ về phương án khởi nghĩa, cướp chính quyền từ tay thực dân Pháp ở đồn Mỏ Nhài – Châu lị Bắc Sơn. Tại cuộc họp đã ra Nghị quyết thành lập Ban chỉ đạo khởi nghĩa và quyết định thời gian khởi nghĩa là 20h ngày 27/9/1940.
Đình Nông Lục là một di tích kiến trúc nghệ thuật được xây dựng từ đầu thế kỷ XX với kiến trúc theo kiểu chữ nhất, diện tích khoảng 180m2. Kiến trúc Đình là sự kết hợp giữa kiểu đình truyền thống đồng bằng Bắc Bộ với kiến trúc nhà sàn của người Tày Lạng Sơn.
Du khách đến dâng hương  tại đình Nông Lục
Đến với di tích đình Nông Lục, du khách có thể tìm hiểu về giá trị lịch sử truyền thống cách mạng, giá trị văn hóa, kiến trúc nghệ thuật đặc sắc và kết hợp tham quan các điểm di tích tiêu biểu khác trong cụm di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn.

                                                      Nguồn bài viết: Lê Dương (sưu tầm)

BẢO TÀNG KHỞI NGHĨA BẮC SƠN

Bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn - nơi các em học sinh đến thăm quan, học tập lịch sử
Nếu du khách đã chuẩn bị hành trình đến du lịch Lạng Sơn, thì một địa điểm không thể bỏ qua là Bảo tàng Khởi nghĩa Bắc Sơn. Bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn nằm cạnh đường quốc lộ 1B, thuộc thôn Long Hưng, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, cách trung tâm thị trấn Bắc Sơn khoảng 2,5 km về phía bắc, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 80 km. 
Bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn được xây dựng năm từ 1985 với dáng dấp mô phỏng kiến trúc một ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày, giống như một không gian văn hóa tái hiện một cách sinh động toàn bộ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc. Nội dung trưng bày theo 3 chủ đề: Bắc Sơn thời tiền sử  Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn  Bắc Sơn phát huy truyền thống cách mạng. Đây là một bảo tàng lưu niệm sự kiện lịch sử bằng các tài liệu hiện vật, hình ảnh, giúp người xem hiểu một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ thống về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Bảo tàng Khởi nghĩa Bắc Sơn đã trở thành một thiết chế văn hóa quan trọng của địa phương, là nơi nghiên cứu, học tập và giáo dục truyền thống cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. 
                                           Nguồn bài viết:  Lê Dương (sưu tầm)                                                                                       

LÊ HỘI LỒNG TỒNG Ở HUYỆN BẮC SƠN, TỈNH LẠNG SƠN



Lễ hội Lồng Tồng  thường gọi là Hội xuống đồng, là một lễ hội của dân tộc Tày, cũng là nét quy tụ những sắc thái văn hóa đặc trưng nhất của các dân tộc Tày, Nùng. Được xem là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống no đủ…Lễ hội Lồng Tồng vừa mang ý nghĩa tâm linh vừa là nghi lễ mở màn cho một mùa làm ăn mới. Trong lịch sử Việt Nam, từ xa xưa, lễ hội này đã phát triển nhiều nơi đặc biệt ở các tỉnh miền núi Đông Bắc trong đó có vùng đất Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn – một trong những căn cứ địa cách mạng quan trọng thời kháng chiến chống Pháp.
Bắc Sơn được xác định là một trong những cái nôi  văn hóa của dân tộc Việt Nqm với nền "Văn hóa Bắc Sơn ", nơi được thiên nhiên ưu đãi với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng. Nhiều địa danh, di tích lịch sử, văn hóa được xếp hạng cấp Tỉnh như đình Nông Lục, Đồn Mỏ Nhài, Đèo Tam Canh… Đặc biệt hơn nữa, hàng năm khi Tết đến xuân về, hoa đào khoe sắc hồng phai, hòa cùng không khí lễ hội trên khắp đất nước tại xã Quỳnh Sơn, huyện Bắc Sơn diễn ra lễ hội Lồng Tồng, một lễ hội mang đậm chất dân gian, giàu bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc Tày Nùng xứ Lạng.

Hoa đòa khoe sắc khi mùa xuân về trên bản

1.Lịch sử, nguồn gốc.
Truyện kể rằng, ở đời nhà Lý Ông Dương Tự Minh người dân dộc Tày làng Quan Triều, tỉnh Thái Nguyên, là thủ lĩnh của Phủ Phú Lương có công trong cuộc chinh chiến chống quân xâm lược nhà Tống, giữ vững vùng biên cương phía Bắc của nước Đại Việt đầu thế kỷ thứ XII. Sau khi dẹp giặc xong, núi rừng bình an, cùng với việc xây dựng vùng đất phồn thịnh ông Dương Tự Minh luôn quan tâm đến đời sống của đồng bào các dân tộc nghèo khó. Cuối đời ông trở về Điểm Sơn (nay là núi Đuổm) và mất ở đó.  Ông được nhà Lý phong sắc “Uy viễn đôn kính cao sơn quảng độ chi thần”, các đời sau đều ghi nhận ông là Cao Sơn Quý Minh. Khi được biết tin ông mất, để tưởng nhớ công đức của Dương Tự Minh người dân tổng Quỳnh Sơn đã lập đền thờ tại Đẳng Rử Thôn bên sườn núi đá nước nguồn, phía sau có giếng tiên thuộc Quỳnh Sơn. Trải qua nhiều năm phát triển dân số Quỳnh Sơn ngày càng đông địa điểm chật hẹp, dân làng đã cùng nhau chuyển Đền đến một địa điểm mới cách địa điểm cũ 400m về phía Đông giữa thôn Đon Riệc I và Đon Riệc II. Đây là nơi để nhân dân thờ cúng, sinh hoạt văn hóa tâm linh hướng nguyện cầu sự giúp đỡ của thánh thần nhằm có cuộc sống ấm no hạnh phúc, qua đó gắn kết tinh thần cộng đồng và giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đình chùa Quỳnh Sơn được xây dựng từ thời nhà Lý cùng với đó lễ hội được hình thành và duy trì đến năm 1958, sau đó bị mai một. Đến năm 2005 được khôi phục và lưu giữ đến ngày nay.
2. Nghi thức lễ hội
2.1. Chuẩn bị cho lễ hội:
Trước ngày hội, các gia đình đều quét dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Đồng thời, mỗi gia đình làm một mâm cỗ theo khả năng mang hàm ý phô bày sự khéo léo của người phụ nữ trong việc nội trợ, nấu nướng các món ăn truyền thống như bánh chưng, bánh dày, chè lam, bánh bỏng... Trên mỗi mâm cỗ đều có một chiếc bánh hình bông hoa nhiều màu sắc. Mỗi mâm cỗ còn có thêm đôi quả còn  được làm bằng vải màu, bên ngoài có tua rua nhiều mầu sắc sặc sỡ, bên trong nhồi cát và bông.
2.2. Phần lễ:
Phần nghi lễ cúng tế trời đất và các thần linh do thầy mo thực hiện. Sau khi đã chuẩn bị xong lễ vật, hai ông chủ tế, 8 ông quan lễ tiến tước và các thầy mo, thầy pháp sư làm thủ tục đuổi ma trừ tà, đồng thời tâu sớ lên thiên đình, vua cha phật tổ như lai, quan âm bồ tát, thần linh các phương, mời các vị thánh thần trên thiên đình xuống với dân làng mở hội cầu mùa. Sau đó 2 ông chủ hội và 8 quan lễ tiến tước sẽ vào vị trí để chuẩn bị cho các phần nghi lễ khác nhau. Sau khi đã trải qua nghi lễ cúng đức vua và lễ cúng thổ công, sẽ chuyển sang 2 nghi lễ quan trọng là lễ khoán an và lễ nghinh thần.
Một hình ảnh trong phần lễ hội

Mở đầu Lễ khoán an, 2 ông chủ hội sẽ vào đình cúng và xin âm dương.  Sau khi xin được âm dương, một người có chức quyền cao trong xã hoặc một người cao tuổi có uy tín nhất trong xã sẽ đọc những lời viết trên giấy đỏ. Khi đọc xong người đọc sẽ dâng tờ giấy lên đức vua, người đọc lời ăn thề vào trong đình lấy tờ giấy đỏ ra đốt hóa cùng với mâm vàng tuyên bố kết thúc lễ khoán an. Đến phần lễ nghinh thần, nội dung qui trình của lễ được thực hiện theo khẩu hiệu hô của hai thông sứ (đông sứ, tây sứ), bên tả hô, bên hữu đáp lại…Nghi thức tế của lễ hội vẫn nghiêm cẩn như xưa. Sau khi nghi lễ cúng tế hoàn tất thì người ta khiêng kiệu, rước thần linh ra xứ đồng Nà Tấn. Ra đến cách đồng, sau khi cúng xong tuần tế yên vị, tiếp tục làm lễ cúng Thần Nông (cúng hạ điền) cầu xin phù hộ cho bà con trong năm mới làm ăn phát đạt, gặp nhiều thuận lợi, mùa màng bội thu. Đến phần nghi lễ cày hạ điền sẽ được bắt đầu thì những người đại diện cho các thôn sẽ xuống đồng cày những đường cày đầu năm, mà dân gian gọi là đường cày xông đất, mở đầu cho một mùa làm ăn mới sản xuất thuận lợi. Đến chiều ngày 13 tháng giêng, người ta làm nghi lễ rước kiệu, rước thần linh hồi cung về đình làng và lễ tế tại đình..
Người dân khiêng kiệu, rước thần linh ra đồng
2.3. Phần hội:
Trong hai ngày 12, 13 tháng giêng, sau phần lễ sẽ là phần hội với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao như: múa rối, múa tiên, đánh cờ người. Riêng với trò đánh cờ tướng lại đòi hỏi người chơi phải có trí tuệ sắc sảo, minh mẫn, tài quan sát bao quát, kiên định với suy tính của mình để đưa ra được những nước cờ mà đối phương khó gỡ. Trong khi đó các đội hát Sli, hát then làm cho không khí lễ hội đậm sắc màu dân tộc. Bên cạnh đó các trò chơi thể thao đấu vật, đánh bóng truyền thêm phần hấp dẫn, lôi cuốn người xem hội. Có thể nói, mỗi trò chơi đều có nét hấp dẫn riêng.
Khi đêm về, các nam thanh nữ tú lại thi hát sli, hát lượn cũng như để bày tỏ tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước.
Lễ hội Lồng Tồng được tổ chức trên một cánh đồng có diện tích lớn. Hàng ngàn người dân sẽ tới tham dự.  Điều đặc sắc của lễ hội là hầu như tất cả các gia đình trong thôn, trong xã đều làm cỗ đến cúng thần và mời mọi người cùng ăn. Giống như nhiều lễ hội đặc sắc khác trên quê hương Xứ Lạng, đến với lễ hội xã Quỳnh Sơn, người dự hội sẽ có dịp được thưởng thức món đặc sản lợn quay lá mác mật. Trong ẩm thực lễ hội không thể không kể đến bánh chưng đen, một loại bánh được làm từ gạo nếp ngâm tro của rơm nếp vì thế khi thưởng thức ta sẽ cảm nhận hương vị riêng có của quê hương Bắc Sơn.
3. Ý nghĩa
Việc tổ chức lễ hội lồng tồng nhằm tôn thờ và thể hiện lòng biết ơn người anh hùng dân tộc Dương Tự Minh đã có công chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước, thể hiện truyền thống đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”. Nhưng ý nghĩa sâu xa hơn có thể thấy, lễ hội Lồng Tồng là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian đậm chất nhân văn, thể hiện khát vọng của người dân trong sự hòa hợp trời đất, âm dương, cầu mong cho cuộc sống khỏe mạnh, vạn vật sinh sôi, đồng thời thể hiện nét đẹp tâm hồn người dân tộc miền núi luôn gắn với thiên nhiên, gắn với những tập tục văn hóa lâu đời. Lễ hội Lồng Tồng đã trở thành một điểm nhấn về nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Tày trên địa bàn xã Quỳnh Sơn, huyện Bắc Sơn nói riêng và đồng bào các dân tộc Lạng Sơn nói chunggóp phần làm phong phú kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam.

                             Nguồn bài viết: Hoàng Lại Sơn và Hoàng Quyết (sưu tầm)



DI TÍCH LỊCH SỬ KHỞI NGHĨA BẮC SƠN


Khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn có giá trị lịch sử tiêu biểu, quan trọng trong hệ thống các di tích lịch sử quân sự cách mạng Việt Nam, ghi dấu hàng loạt những sự kiện có ý nghĩa đặc biệt, như: Quá trình tiếp thu đường lối cách mạng và sự ra đời của Chi bộ Đảng đầu tiên ở Bắc Sơn (1930 - 1936); Phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ và sự thành lập Đảng bộ huyện Bắc Sơn (1936 - 1939); Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940) - khởi đầu cao trào đấu tranh cách mạng trong cả nước; Sự thành lập khu căn cứ du kích Bắc Sơn (16/10/1940); Thành lập Mặt trận Việt Minh xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa (1941 - 19450; Sự ra đời của Đội Cứu Quốc quân Bắc Sơn tại căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai (tháng 2/1941); Cao trào kháng Nhật cứu nước và cuộc khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945. Khu di tích là an toàn khu nuôi giấu, bảo vệ các cơ quan, cán bộ cao cấp của Trung ương, Xứ ủy Bắc kỳ trong thời gian hoạt động cách mạng tại Bắc Sơn, nơi đặt trạm liên lạc thông suốt giữa Trung ương với Xứ uỷ Bắc kỳ cùng các địa bàn khác và là nơi cung cấp tài liệu cho công tác huấn luyện cán bộ cách mạng của Đảng.
Khu di tích khởi nghĩa Bắc Sơn nằm trên Quốc lộ 1B
Di tích gồm 12 điểm, đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1992, phân bố trên địa bàn 06 xã: Tân Hương, Hưng Vũ, Vũ Lăng, Vũ Lễ, Tân Lập, Long Đống thuộc huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, bao gồm:
1. Di tích Bó Tát (Mỏ Tát): có tổng diện tích 15.798m2 nay đã là phế tích, chỉ còn lại phần nền móng nhà ở cũ của ông Đường Văn Thông với diện tích 54m2    cùng một số tảng đá kê chân cột nhà. Xung quanh nhà được bao bọc bởi khu vườn trồng cây ăn quả và các bụi tre gai.
2. Di tích đồi Nà Kheo: tổng diện tích là 4.463m2, nằm trên đỉnh đồi cao, xung quanh là ruộng lúa, bụi tre, rừng cây rậm rạp và một số nhà dân, chân đồi có hệ thống đường hào, dài 30m, cao khoảng 1m, ngang 0,5m.
3. Di tích đình Nông Lục: phía Bắc giáp với tỉnh lộ 241; hai bên đầu hồi có hai cây đa to (khoảng 100 năm tuổi). Đình được xây dựng từ thời Nguyễn, trên một gò đất cao, tổng diện tích là 182,7m2, kiến trúc gỗ kiểu nhà sàn với sàn cao 0,7m so với mặt nền, mái lợp ngói máng; bốn mặt bưng kín bằng ván. Đình thờ thần Cao Sơn Quý Minh Đình được chạm khắc nhiều hình tượng nghệ thuật với các chủ đề như tứ linh, lưỡng long vờn mây, lưỡng long chầu nhật, nghê và hoa lá...,
4. Di tích đồn Mỏ Nhài: nằm trên quả đồi diện tích trên 78.000m2, án ngữ con đường từ thị trấn Bắc Sơn đi xã Trấn Yên và Vũ Lăng. Tại đỉnh đồi, Thực dân Pháp đã cho xây dựng đồn bốt, nhà cửa kiên cố, bao quanh phía ngoài là hệ thống tường bằng đá hộc, dày gần 40cm và hàng rào dây thép gai dày đặc. Con đường duy nhất từ chân đồi lên đồn rộng khoảng 6m. Hiện nay dấu tích còn lại của đồn Mỏ Nhài là 02 nền móng nhà bằng đá, hình chữ nhật, cao khoảng 1,5m, dày 0,6m. Phía Bắc đỉnh đồi (cách nền đồn khoảng 100m) đã xây dựng 01 tượng đài chiến thắng Đồn Mỏ Nhài và dưới chân núi, ngay sát trục đường Tỉnh lộ xây dựng 01 bia ghi dấu sự kiện.
5. Di tích Thâm Thoông - Dập Dị: là đoạn đèo nằm trên tỉnh lộ 241 (tuyến đường Bắc Sơn - Vũ Lăng), tổng diện tích là 2.647m2. Nơi diễn ra sự kiện lịch sử là vị trí lưng chừng của đèo, dài khoảng 500m, thuộc xã Vũ Lăng, được cắm biển ghi dấu sự kiện ngay sát bên trái trục đường Bắc Sơn - Vũ Lăng.
6. Di tích Trường Vũ Lăng: tổng diện tích là 844m2. Phía Tây Bắc giáp đường bê tông liên thôn và Trường Trung học Cơ sở Vũ Lăng. Bao quanh di tích là hệ thống tường rào xây bằng gạch chỉ và vườn hoa cây cảnh. Hiện nay, trong khuôn viên di tích đã xây dựng 01 Bia ghi dấu sự kiện và công trình Trường Vũ Lăng (là ngôi nhà cấp 4, ba gian với tổng diện tích 102m2, do Pháp xây dựng năm 1927), đã được sửa chữa, cải tạo thành Nhà trưng bày truyền thống.
7. Di tích Sa Khao (Phia Khao): nằm trong lũng Sa Khao, có diện tích 2.626m2, được bao bọc bởi núi Sa Khao và núi Pò Nến, độ cao trung bình 500 – 550m so với mặt nước biển. Hiện nay ngôi nhà của Ông Lý Văn Tình (thân phụ Bà Lý Thị Quyên) - nơi nuôi giấu cán bộ, hoạt động của Đoàn cán bộ Trung ương và Châu ủy Bắc Sơn đã trở thành phế tích, chỉ còn sót lại nền nhà bằng đất có tổng diện tích 67,5 m2(dài 9m, rộng 7,5m), quay hướng Đông Nam. Tuy nhiên con, cháu của ông đã cho dựng lại một ngôi nhà bằng tre nứa, kiểu nhà sàn 2 tầng trên nền nhà cũ với tổng diện tích 30m2. Bên trái của nhà là ao cá khoảng 300m2 (trong chiến tranh dùng để nuôi cá làm thức ăn tiếp tế cho cán bộ); bên phải là vườn cây của gia đình. Hiện tại đầu đường vào di tích Sa Khao đã được đầu tư xây dựng bia ghi dấu sự kiện.
8. Di tích Khuổi Nọi: nằm trong khu rừng Tam Tấu, có diện tích 33.151m2, được bao bọc bởi các dãy núi cao với các tầng thực vật đa dạng, phong phú. Đây là địa bàn hoạt động bí mật của Đội Cứu Quốc quân, khi có biến cố có thể rút lui an toàn theo nhiều hướng khác nhau: hướng Nam thì vượt sang xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, hướng Đông băng qua rừng đến xã Tân Thành, Tân Hương, huyện Bắc Sơn... Hiện nay, khu di tích chỉ còn lại các địa điểm dựng lán trại và sân luyện tập của Cứu Quốc quân trước đây. Năm 2014, di tích được đầu tư xây dựng một số hạng mục, gồm: 01 chốt canh gác, 02 lán trại (01 lán chỉ huy và 01 lán sinh hoạt đội viên), 01 cụm biểu tượng tôn vinh và khu khuôn viên, lễ đài.
9. Di tích Lân Pán: có diện tích 11.000m2. Toàn bộ khu di tích nằm ở sườn núi đá vôi Pác Ca, có độ cao trung bình 500m so với mặt nước biển, xung quanh di tích là sườn núi và vườn cây ăn quả của nhân dân. Địa điểm gắn liền sự kiện là một khu đất đá có diện tích khoảng 100m2, xung quanh là các mỏm đá tai mèo lởm chởm, cao trung bình 40cm - 80cm và một mái đá tự nhiên cao khoảng 7m. Tại địa điểm này có thể quan sát được cả một vùng rộng lớn của cánh đồng Lân Pán và con đường giao thông liên xã Hữu Vĩnh - Tân Lập - Tân Hương. Di tích Lân Pán là địa điểm hoạt động bí mật của Đoàn cán bộ Trung ương Đảng trong quá trình triển khai Nghị quyết Trung ương 8 và củng cố phát triển lực lượng vũ trang cơ sở tại Đảng bộ Bắc Sơn. Hiện nay, cách di tích 500m đã được xây dựng 01 bia ghi dấu sự kiện.
10. Di tích Lân Táy - Mỏ Pia: có tổng diện tích hơn 24ha, gồm 2 điểm là hang Mỏ Pia và địa điểm Lân Táy.
Hang Mỏ Pia: là một hang đá nằm ở phía Nam của di tích Lân Táy - Mỏ Pia, có diện tích 3000m2, cửa hang cao 7m, rộng 4m.
Địa điểm Lân Táy: nằm ở phía Bắc của di tích Lân Táy - Mỏ Pia, nơi dựng lán nghỉ của Đoàn cán bộ cao cấp Trung ương Đảng. Khu vực này có nhiều bãi đá, khu đất đan xen nhau, bao quanh là những ngọn núi đá nhỏ trùng điệp có độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt nước biển, tạo thành lòng chảo có diện tích trên 1ha. Với địa hình hiểm trở, giao thông thuận tiện, khí hậu trong lành, đất đai rộng, nhiều cây che phủ, dân xung quanh thưa thớt, đây là địa điểm hoạt động bí mật và rút lui an toàn của cách mạng khi có biến động xảy ra.
11. Di tích hang Mỏ Rẹ: có diện tích 9.304m2, nằm trong núi Mỏ Rẹ -   diện tích 38.608m2, độ cao trung bình 480m so với mặt nước biển. Phía dưới chân núi có một bãi nước ngập, xung quanh là ruộng, vườn của dân. Hang Mỏ Rẹ nằm lưng chừng núi và mặt quay về hướng Tây Bắc, đường lên xuống hang rất khó khăn; phía mặt ngoài hang bị cây cối che phủ không nhìn thấy cửa hang. Đây là nơi hoạt động bí mật của các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy Bắc Kỳ và là nơi diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt phá vòng vây của địch ngày 28/8/1941.
12. Di tích Đèo Tam Canh: nằm trên trục đường quốc lộ 1B (nối giữa huyện Bình Gia và huyện Bắc Sơn), thuộc địa phận xã Long Đống, chiều dài gần 4km, độ cao trung bình 450 - 480m, bao quanh là các dãy núi đá vôi có độ cao trung bình 550 – 650m so với mặt nước biển và cây xanh bao phủ. Hiện nay, tại đỉnh đèo Tam Canh đã được lựa chọn làm địa điểm xây dựng biểu tượng Khởi nghĩa Bắc Sơn và 01 nhà bia ghi dấu sự kiện với tổng diện tích khuôn viên khoảng 120m2.
Hiện nay, các di vật, tài liệu hiện vật liên quan đến khu di tích đang được lưu giữ, bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng Bắc Sơn và Nhà trưng bày truyền thống trường Vũ Lăng, với tổng số 138 hiện vật, gồm: 127 hiện vật gốc, 11 hiện vật phục chế.
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, ý chí quật cường của quân, dân Bắc Sơn nói riêng và quân, dân Việt Nam nói chung. Ngày nay những sự kiện lịch sử và lễ hội, phong tục tập quán của đồng bào gắn với những địa điểm thuộc Khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn chính là di sản văn hoá (vật thể, phi vật thể) quý báu cần được tiếp tục quan tâm, gìn giữ, khai thác và phát huy, tạo thêm nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội cho địa phương.
Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn (huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2499/QĐ-TTg ngày 22/12/2016)./.

                                                     Nguồn bài viết: Hoàng Trọng Thể (sưu tầm)



BÁNH CHƯNG ĐEN - ĐẶC SẢN CỦA BẮC SƠN


Để làm hoàn thiện một chiếc bánh chưng đen, nhất thiết phải cần đến sự khéo léo, tinh tế. Cũng bởi vậy mà khi chọn vợ, người dân Bắc Sơn thường để ý đến những cô gái biết làm nên chiếc bánh tròn trịa.
Bánh chưng đen là đặc sản của huyện miền núi Bắc Sơn -Lạng Sơn. Với người dân tộc Tày, đây là món không thể thiếu trên mâm cỗ cúng tổ tiên, trời đất mỗi vụ xuân về.
Bánh chưng đen luôn hấp dẫn bởi vị thanh mát
Bánh chưng đen (hay còn gọi là bánh chưng cẩm) được gói theo hình trụ dài giống bánh tét miền Nam hay bánh gù của người Giáy. Tuy nhiên, món bánh đặc trưng của người Tày ở huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn) có màu đen bóng rất lạ mắt, quyện chặt vào từng hạt nếp chắc mẩy và khiến không ít người phải tò mò.
Ngay từ tháng 10 Âm lịch, người Tày đã rục rịch chuẩn bị những công đoạn đầu tiên để gói bánh chưng đen. Sau vụ gặt lúa mùa, người ta chọn những cọng rơm nếp to, vàng ươm đem về phơi khô rồi đốt thành tro. Sau đó, họ vò kỹ, rây lấy phần mịn nhất rồi trộn với gạo nếp thơm để tạo ra màu đen bóng.
Một số nơi khác còn lấy thân cây núc nác trên rừng tước vỏ, đốt thành than, giã mịn như bột rồi trộn lẫn với gạo nếp. Người Tày sẽ liên tục đảo đều cho đến khi miết mạnh hạt gạo trên đầu ngón tay, thấy gạo đã quyện chặt với bột than thành màu đen nhánh thì mới đem đi gói.
Tất cả các nguyên liệu làm bánh từ lúa nếp, thảo quả cho đến thịt lợn, đỗ xanh,… đều đặc biệt vì mang đậm phong vị vùng cao. Gạo nếp đạt “chuẩn” phải chọn giống ngon nhất, hạt to tròn đem vo thật kỹ, xóc với một chút muối tinh. Thịt lợn là thịt ba rọi thái mỏng ướp với gia vị, thảo quả khô giã nhỏ trộn cùng tiêu, ớt bột. Cuối cùng, nhân bánh là đỗ xanh trộn hành mỡ, hạt tiêu và được bọc trong lá dong rừng tươi.
Công đoạn gói bánh
Bánh chưng đen phải được gói thủ công. Bánh dài khoảng 30 cm, đường kính 6 – 7cm và dùng lạt dài cuốn chặt. Trước khi luộc bánh, người ta đem ngâm qua nước lạnh một lần, xếp vào nồi đổ nước cho ngập mặt lá, đun khoảng 4 - 5 tiếng thì vớt ra.
Làm được bánh chưng đen không hề đơn giản. Chính bởi vậy khi chọn nàng dâu, người dân Bắc Sơn thường chú ý đến những cô gái biết làm nên chiếc bánh tròn trịa, đậm đà, khi bóc ra đường lạt gói phải hằn đều lên thân bánh...
Khi thưởng thức, người dân lấy chính sợi lạt quấn quanh thân bánh để cắt thành từng khoanh. Nhìn từ bên ngoài, bánh dẻo quánh, nhân vàng ươm màu đỗ, thơm lừng mùi hành mỡ, hạt tiêu, mùi lá dong. Chỉ cần nhìn thôi, thực khách cũng đủ ngây ngất và có cảm giác như bị mê hoặc bởi thứ đặc sản vùng cao. Nếu muốn làm mới vị giác, bạn có thể thưởng thức món bánh chưng đen nướng. Đặt chiếc bánh còn nguyên lá lên lớp than hồng cho đến khi mùi thơm của gạo nếp, thảo quả và thịt mỡ lan tỏa trong không khí, đánh thức giác quan của tất cả mọi người.
Bánh chưng đen được đặt nơi bàn thờ tổ tiên của người Tày
Chỉ một miếng bánh nhưng mang đủ hương vị đặc biệt của nếp, thịt lợn, vị ngọt của nhân đỗ xanh, vị lạ của cây rừng... Đó thực sự là dư vị không thể nào quên. Nét độc đáo của bánh chưng đen còn ở vị bùi bùi, thơm mát, không gây nóng cổ, nóng bụng như bánh chưng thường. Chính vì vậy, người dân còn gọi đây là món ăn “hạ hỏa”.
Ngày trước, loại bánh này chỉ xuất hiện trong ngày lễ, Tết, giỗ chạp… Tuy nhiên, hiện nay, nó đã trở thành thứ đặc sản phổ biến mà bất cứ ai tới Bắc Sơn đều có thể mua về làm quà tặng. Bánh chưng đen có thể để được rất lâu, đến hết tháng Giêng mà vẫn thơm ngon.
Giáp Tết trong cái rét vùng cao, được ngồi bên nồi bánh chưng sôi sùng sục khói, uống vài ba chén rượu ngô thơm nồng, ôn lại chuyện năm cũ, bàn chuyện năm mới thì quả thực không còn gì ấm cúng và thú vị bằng.
                                                              Nguồn bài viết: Lý Minh Nguyệt ( sưu tầm)